DO ART Khoảng năm 1910, giới họa sĩ bắt đầu cố gắng tạo nên những tác phẩm không phải là hình ảnh người hay những nơi chốn và đồ vật có thật, mà là những “sự vật” do họ tưởng tượng ra. Nên thay vì vẽ những khung cảnh dễ nhận biết, họ sử dụng chất liệu của hội họa – màu sắc, đường nét và hình khối – kết hợp chúng với nhau theo cách nào đó giàu chất biểu cảm hoặc khơi gợi. Thể loại này là nghệ thuật trừu tượng, rất nhiều tên tuổi tiên phong thời đầu là người Nga.
Ngẫu hứng số 26 - Chèo thuyền, (Improvisation No.26 – Rowing, 1912) của Wassily Kandinsky; sơn dầu trên toan, 97 x 108 cm. Bức tranh này đôi khi được gọi là Những mái chèo (Oars).
Bức tranh trừu tượng này vẫn chứa đựng những dấu vết của khung cảnh tạo cảm hứng cho nó. Bạn có tìm ra hai nhân vật trên chiếc thuyền màu đỏ, nắm chặt những nét dài màu đen có lẽ là mái chèo? Con thuyền trôi giữa những mảng màu tung tóe đầy kịch tính, gợi ra cảnh nước sâu sóng cả. Phía trên, một hình dáng sẫm màu tựa như con chim bay ngang qua khoảng trời cũng không kém phần rực rỡ.
Âm nhạc và màu sắc
Wassily Kandinsky là họa sĩ người Nga làm việc ở Đức, ông sáng lập ra nhóm Kị sĩ xanh. Nhưng ông cũng là tên tuổi tiên phong của nghệ thuật trừu tượng, tạo nên tác phẩm thể nghiệm thời đầu như Chèo thuyền. Thoạt nhìn, bức tranh trông giống như một mẫu vẽ trừu tượng nhiều màu sắc. Trên thực tế, nó ít nhiều dựa trên cảnh hai người chèo thuyền. Nhưng khi xem tranh, ta sẽ chỉ chú ý đến đường nét, hình khối và màu sắc như những yếu tố riêng biệt, hơn là cách thức diễn tả khung cảnh. Kandinsky đặc biệt coi trọng cách dùng màu. Ông nghĩ màu sắc có thể biểu đạt cảm xúc cũng như âm nhạc, và cho rằng: “Màu sắc là một thứ sức mạnh tác động trực tiếp đến tâm hồn…Màu sắc chính là phím đàn… Người họa sĩ là bàn tay chơi nhạc.”
Xếp hình
Lyubou Popova là nghệ sĩ tiền phong hàng đầu của Nga. Bà đã thử nghiệm phong cách Lập thể và Vị lai trước khi phát triển một phong cách trừu tượng hơn, sắp xếp những hình khối cơ bản ttreen những nền phẳng, trơn. Popova tin rằng nghệ sĩ không nên cố gắng sao chép những gì họ nhìn thấy, thay vào đó hãy tạo ra hình ảnh của riêng mình. Bà viết: “Sự tái tạo hiện thực – nếu thiếu những biến đổi và chuyển đổi mang tính nghệ thuật – thì không thể là đối tượng của hội họa”.
Nhưng đến thập niên 1920, thời hậu Cách mạng Nga, Popova quyết định từ bỏ hội họa hoàn toàn, bởi quả quyết rằng nghệ thuật nên có mục đích thực tiễn hơn. Vì thế, bà tham gia một nhóm mang tên Kiến tạo và bắt đầu theo đuổi các dự án thiết kế, chế tạo vải, gốm và áp phích.
Nghệ sĩ tuyệt đỉnh
Họa sĩ người Nga Kazimir Malevich tin rằng chỉ có thể thực sự tạo ra nghệ thuật khi ông tạo nên sự vật. Ông nói: “Họa sĩ chỉ có thể là người sáng tạo khi những hình thể trong tranh không có điểm gì chung với tự nhiên”. Vì thế ông bắt đầu tạo ra hình ảnh trừu tượng bằng cách vẽ những hình khối hình học đơn giản trên nền vuông. Sử dụng nền vuông nghĩa là ông có thể tránh khổ dọc (kiểu tranh chân dung) hoặc khổ ngang (kiểu tranh phong cảnh) truyền thống, những yếu tố có thể làm tác phẩm của ông trông giống tranh vẽ sự vật, hơn là tự thân sự vật trong chính dạng hình vốn có.
Malevich đặt tên cho phong cách mới này là chủ nghĩa Tuyệt đỉnh, xuất phát từ tiếng Latinh, supemus nghĩa là đẳng cấp cao nhất. Ông coi đó là loại hình nghệ thuật thuần khiết, thông tuệ hơn. Sau Cách mạng Nga năm 1917, ông cố gắng truyền bá nghệ thuật phù hợp với nước Nga mới cấp tiến. Ông không thực sự thuyết phục được nhà cầm quyền – nhưng đã gây ảnh hưởng lớn lên những họa sĩ khác, trong đó có Kandinsky và Popova.
Tuyệt đỉnh năng động (Dynamic Suprematism, 1915-16) của Kazimir Malevich; sơn dầu trên toan, 80 x 80 cm. Malevich lo rằng tranh trừu tượng bình thường có thể nhìn quá tĩnh. Vì thế ông bắt đầu sử dụng những hình khối được sắp xếp phức tạp, như trong bố cục này, cố gắng tạo nên một cảm giác về chuyển động mạnh mẽ, hăng hái. Ông gọi đó là Tuyệt đỉnh Năng động.
Đến với Nghệ Thuật - Rosie Dickins
Vũ Hiển & Phạm Quỳnh Châu dịch