DO ART Kỉ nguyên hậu chiến chứng kiến sự bùng nổ của hàng hóa sản xuất hàng loạt và giải trí đại chúng. Điều này khơi dậy một nền văn hóa mới được đại chúng (pop-culture). Nhiều nghệ sĩ hưởng ứng bằng cách vay mượn những yếu tố của văn hóa đại chúng để tạo nên thứ ngày nay gọi là Pop art. Phong trào nổi lên ở Anh nhưng nhanh chóng lan tới New York, và nhiều gương mặt nghệ sĩ nổi tiếng nhất của trường phái này là người Mỹ.
Whaam! (1963) của Roy Lichtenstein; acrylic trên toan, 173 x 406 cm. Bức vẽ này bắt chước phong cách các tập truyện tranh. Nhìn kĩ hơn, ta có thể thấy những chấm nhỏ giống như ấn phẩm từ một số loại máy in. Điều ta không thấy được ở đây là qu mô trên thực tế - tác phẩm này phủ kín cả một bức tường.
Cuộc nổi loạn Pop
Người ta thường phân biệt giữa nghệ thuật cao cấp, ví dụ như hội họa – đắt đỏ và chỉ thiếu số ưu tú được thưởng ngoạn – với văn hóa đại chúng, mọi người đều có thể tiếp cận. Nhưng Pop Art thách thức lối phân biệt này, bằng cách sử dụng hình ảnh từ tạp chí, truyền hình, các loại hình truyền thông đại chúng khác, và bằng cách sao chép những kĩ thuật sản xuất hàng hóa hàng loạt. Các nghệ sĩ Pop cũng nổi loạn để phản đối thành công của trường phái Biểu hiện Trừu tượng, một thứ họ cho là quá tự phụ và vị kỉ.
Rốt cục điều gì…?
Rốt cục điều gì làm cho những ngôi nhà ngày nay thật khác lạ, thật lôi cuốn? (Just What Is It That Makes Today's Homes So Different, So Appealing?, 1956) của Richard Hamilton; cắt dán, 26 x 25 cm. Thậm chí tên tranh cũng nhại theo ngôn ngữ quảng cáo.
Tác phẩm cắt dán năm 1956 này của nghệ sĩ người Anh Richard Hamilton đôi khi được coi là bức tranh Pop đầu tiên. Nó diễn tả một căn phòng trông khá hiện đại với bức ảnh mặt trăng khổng lồ trên đầu – có lẽ ám chỉ cuộc chạy đua giữa Mỹ và Liên Xô để đưa con người lên mặt trăng. Bên trái, một lực sĩ thể hình nắm chặt cây kẹo mút khổng lồ mầu đỏ có chữ POP. Bên phải, một cô nàng tạo dáng khêu gợi dưới tấm áp phích ca tụng sự lãng mạn. Hai người tạo nên một “cặp đôi lý tưởng” – hoặc một hình thức giễu nhại khái niệm ấy. Vây quanh họ là hàng tiêu dùng đủ loại, gồm một chiếc máy hút bụi có thể kéo dài, một máy ghi âm kiểu băng cối và danh mục bán hàng. Đó là một sự kết hợp kì khôi, nhạo báng quảng cáo cùng cuộc sống “đẹp như tranh vẽ” mà nó cố công tiếp thị đến chúng ta.
Nghệ thuật kiểu sản – xuất – hàng – loạt
Roy Lichtenstein và Andy Warhol là hai trong số những nghệ sĩ Pop người Mỹ nổi tiếng nhất thế giới. Lichtenstein vẽ những bức tranh khổng lồ mang phong cách truyện tranh, như Whaam! Phải chăng ông gợi ý rằng truyện tranh đáng được coi là nghệ thuật, hay ông muốn chúng ta có một cái nhìn phê phán về giá trị của truyện tranh? Theo ông, truyện tranh “bộc lộ cảm xúc mãnh liệt theo một phong cách hoàn toàn máy móc và khác biệt”. Ông bắt chước truyện tranh rất sát, ông thậm chí còn sao chép những chấm màu sử dụng trong in ấn rẻ tiền.
Warhol còn tiến một bước xa hơn, ông mang mọi thứ ra để in, từ hình ảnh hộp súp đến minh tinh điện ảnh. Theo ông, nghệ thuật không còn là việc tạo nên thứ gì đó độc sáng. Ông thậm chí còn đặt tên xưởng sáng tác là Nhà máy (Factory), có ý so sánh nghệ thuật của mình với công nghệ sản xuất hàng loạt.
Vấn đề thị hiếu
Pop art nhanh chóng thành công rực rỡ, có lẽ vì người ta thấy nó thú vị và dễ hiểu. Hamilton định nghĩa nó một cách nỉa mai là: “Đại chúng (thiết kế cho số đông khán giả), Nhất thời (giải pháp ngắn hạn), Có thể bỏ qua (dễ quên), Rẻ tiền, Sản xuất hàng loạt, Trẻ trung (hướng đến người trẻ), Dí dỏm, Gợi cảm, Phô trương, Quyến rũ, Làm ăn lớn”. So với những tác phẩm trừu tượng nghiêm ngặt của thập niên 1950, Pop art có vẻ vô tư và vui nhộn. Những hình ảnh và kĩ thuật thương mại mà nghệ sĩ vận dụng có chủ đích tạo ra những tác phẩm lôi cuốn số đông, nhưng không phải ai cũng thích. Một số nhà phê bình coi Pop art là trường phái “Tân Thô Tục”, họ cảm thấy các nghệ sĩ Pop đã chệch khỏi những mục tiêu nghiêm túc của nghệ thuật.
Vẫn luôn đại chúng
Pop có sức ảnh hưởng lâu dài, thậm chí đến tận ngày nay, trong tác phẩm của những họa sĩ như Jeff Koons. Giống các nghệ sĩ Pop,, ông biến những đồ vật hàng ngày thành nghệ thuật. Ông chủ định chọn một món đồ vớ vẩn hoặc “tầm phào” – như quả bóng bay con thỏ - rồi biến thành một tác phẩm điêu khắc bằng thép bóng loáng. Trông thì buồn cười, nhưng bạn có nghĩ rằng nó mang một thông điệp nghiêm túc? Có lẽ Koons muốn tôn vinh văn hóa tiêu dùng, hoặc bình luận về bản chất “dùng qua rồi bỏ” của xã hội hiện đại, bằng cách biến một món đồ chơi vặt vãnh như quả bóng bay thành một thứ bền vững hơn.
Tác phẩm Thỏ (Rabbit, 1986) của Jeff Koons; thép đúc không gỉ, 104 x 31 cm. Koons đã thực hiện rất nhiều tác phẩm dựa trên những quả bóng đồ chơi như thế này.
Đến với Nghệ Thuật - Rosie Dickins
Vũ Hiển & Phạm Quỳnh Châu dịch